Kenneth Gergen -Tại sao tôi không phải là một nhà kiến tạo luận xã hội?
Tôi không biết việc chuyển nghĩa của từ Social Construction thành “kiến tạo luận xã hội” trong tiếng Việt có đủ nghĩa không. Đây là thuật ngữ được dùng nhiều trong tâm lý học và triết học ở các nước phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ. Và Viện nghiên cứu Taos là một trong những cái nôi của các hoạt động thúc đẩy vấn đề này.
Đôi nét về viện Taos Institute: lúc đầu khi nhìn thấy Taos Instititute, tôi cứ tưởng là Viện nghiên cứu liên quan đến Đạo. Nhưng không phải như vậy, đấy là một Viện nghiên cứu được đặt tại Taos ở New Mexico, Mỹ được thành lập đầu những năm 1990 với những học giả nổi tiếng trong lĩnh vực “social construction” như Harlene Anderson, David Cooperrider, Mary Gergen, Kenneth Gergen, Sheila McNamee, Suresh Srivastva và Diana. Trong số những người đó, thì Kenneth Gergen là học giả có nhiều ấn phẩm nhất liên quan đến social constructionism, social construction và ứng dụng của các quan điểm này trong Tâm lý học.
Quay lại với chủ đề của tranh luận “Tại sao tôi không phải là một nhà kiến tạo luận xã hội?”, một điều băn khoăn là tại sao Kenneth Gergen-người có nhiều nghiên cứu về luận điểm này lại không cho rằng mình là nhà kiến tạo luận xã hội? Các quan điểm của ông đưa ra xoay quanh việc “một cá nhân X là gì? Người đó có phải là người theo lý luận kiến tạo xã hội không?” Một nhà nghiên cứu nào cũng có thể (hay cần phải) có một vị thế của nhà thực nghiệm hay nhà kiến tạo, của nhà hiện thực hay nhà kiến tạo, của nhà kiến tạo thực chứng (constructivist) hay kiến tạo luận (constructionist) [ở chỗ này, tôi lại chưa biết rõ cách chuyển nghữ cho hai thuật ngữ khoa học này???]. Quan điểm của ông chỉ cho thấy có vẻ nhà kiến tạo luận đang được quy chiếu trong mối quan hệ và sự phân biệt với các nhà hiện thực, thực nghiệm hay thực chứng luận.
Kiến tạo luận, theo quan điểm của Gergen là một hệ thống niềm tin, một hệ thống các quan điểm có khi đúng-khi sai, có khi tốt-khi xấu, có nghĩa là nằm giữa ở hai thái cực đối lập nhau trong hệ thống các giá trị. Với cách nhìn về kiến tạo luận được coi là truyền thống này thì khó có thể phát hiện hay tìm ra được các khía cạnh mang tính động lực tạo sự phát triển. Các quan điểm của các nhà kiến tạo luận đang hướng đến thay đổi mọi giả định cho rằng khi nào mọi lý thuyết khoa học, mọi cách lý giải trong tôn giáo, mọi hệ thống quan điểm bao gồm cả các quan điểm của các nhà kiến tạo luận là đúng hay là sai. Đây chính là bản chất cơ bản của kiến tạo luận xã hội khi cho rằng ý nghĩa của tri thức khoa học (hay cái sự thực) được tạo dựng thông qua bối cảnh xã hội của nó chứ không hoàn toàn do nó tạo ra. Đây chính là vấn đề bản thể luận hay nhận thức luận của vấn đề nghiên cứu khoa học, và là bước đi đầu tiên (thành tố đầu tiên) của tiến trình nghiên cứu (bốn thành tố) mà Crotty (1998) có đề cập. Theo cách nhìn của Crotty, kiến tạo luận được nằm ngang hàng với các lý luận khách quan và chủ quan.
Trong hệ thống các quan điểm của mình, các nhà kiến tạo luận xã hội luôn đề xuất chứ không phải hỏi về ý nghĩa cuối cùng của việc đặt ra các câu hỏi liên quan đến đời sống xã hội. Các quan điểm hay hệ thống lý luận đóng góp như thế nào đến sự phát triển của con người và xã hội, ai gặp những bất lợi và ai có được lợi thế, liệu chúng có giúp con người trở nên tự do hay phụ thuộc, liệu chúng có duy trì được cuộc sống của cả hành tinh này hay phá hủy nó… Đó chính là những câu hỏi thật là hiển nhiên về vấn đề giá trị. Giống như việc, các nhà khoa học đang nói về thế giới, liệu có thể tạo dựng được tương lai không? Và nếu có, tương lai nào mà chúng ta mong muốn cho thế giới của chúng ta? Cũng theo cách nói như vậy, bất cứ ai cũng không nên hỏi khi nào một tác phẩm opera là đúng hay là sai, do đó cần hỏi tác phẩm đó có vai trò như thế nào trong đời sống. Do đó cũng đừng tự đặt ra các câu hỏi là liệu tôi có phải là một nhà kiến tạo xã hội, cũng như có phải là nhà thực nghiệm, nhà thực chứng, nhà hiện thực, là người theo tôn giáo này, tôn giáo khác… mà cần hướng đến việc liệu tôi có phải là người có khả năng tham gia được các mô hình, cách thức khác nhau để hiểu về cuộc sống này hay không, chứ đừng hỏi cuộc sống hay vấn đề xã hội đó có ĐÚNG hay không. Đây không phải là vấn đề nhỏ, mà theo Gergen thì đó là những hàm ý vô cùng quan trọng cho kiến tạo luận xã hội để nhìn ra được những khả năng (khả biến) của đời sống.
Những cách bình luận của Gergen cho thấy, mặc dù ông là người đóng góp nhiều cho kiến tạo luận nhưng ông không mặc định gán cho mình cái nhãn là nhà kiến tạo. Cái nhãn đó có ý nghĩa hơn khi tự đặt ông trong bối cảnh xã hội-bối cảnh của các học giả đang đóng góp cho sự phát triển của lý luận này, và nhãn đó chỉ có ý nghĩa khi nó được tạo dựng trong bối cảnh đó-socially constructed. Đấy cũng chính là những tư tưởng chính mà kiến tạo luận luôn đề xuất.
Một số ấn phẩm tiêu biểu của Kenneth Gergen
Books
- Toward transformation in social knowledge. New York: Springer-Verlag, 1982. Second Edition, London: Sage, 1994. ISBN 978-0387906737
- Historical social psychology. Hillsdale, NJ: Erlbaum 1984, (edited with M. Gergen). ISBN 978-0898593495
- The social construction of the person. New York: Springer-Verlag, 1985 (edited with K. E. Davis). ISBN 978-0387960913
- The saturated self, Dilemmas of identity in contemporary life. New York: Basic Books. 1991; 2nd. Ed. 2001. ISBN 0-465-07186-4
- Therapy as social construction. London: Sage (1991). (edited with S. McNamee). ISBN 978-0803983021
- Realities and relationships, Soundings in social construction. Cambridge, Harvard University Press. 1994 ISBN 978-0674749306
- Relational responsibility. Thousand Oaks, CA.: Sage. 1999 With S. McNamee ISBN 978-0761910930
- An invitation to social construction. London: Sage, 1999. 2nd ed 2009 ISBN 0-8039-8377-8
- Therapeutic realities, collaboration, oppression and relational flow. Chagrin Falls, OH: Taos Institute Publications. 2006 ISBN 978-0788021664
- Relational Being. New York: Oxford University Press. 2009 ISBN 978-0195305388
- Social Construction in Context. London: Sage, 2001. ISBN 0-7619-6545-9
- Gergen, Kenneth J., & Thatchenkery, Tojo Joseph (2004. First published 1998), "Organizational science in a postmodern context", in Robert C.H. Chia, In the Realm of Organisation: Essays for Robert Cooper, London: Routledge, ISBN 0-415-12699-1 (Print Edition), retrieved 25 June 2010 ISBN 0-203-26727-3 (Adobe eReader Format). Essay originally published 1996. See article listing below.
Articles
- Gergen, Kenneth J (1973), "Social psychology as history", Journal of Personality and Social Psychology 26 (2): 309–320, doi:10.1037/h0034436, retrieved 25 June 2010
- Gergen, K.J (1978), "Experimentation in social psychology: A reappraisal", European Journal of Social Psychology 8: 507–527, doi:10.1002/ejsp.2420080407
- Gergen, K.J (1978), "Toward generative theory", Journal of Personality and Social Psychology 36 (11): 1344–1360, doi:10.1037/0022-3514.36.11.1344, retrieved 25 June 2010 (Scroll down to page 3 for article).
- Gergen, K.J (March 1985), "The social constructionist movement in modern psychology", American Psychologist 40 (3): 266–275, doi:10.1037/0003-066X.40.3.266, retrieved 25 June 2010
- Gergen, K.J (1989), "Social psychology and the wrong revolution", European Journal of Social Psychology 19: 463–484, doi:10.1002/ejsp.2420190513
- Gergen, Kenneth J., & Thatchenkery, Tojo Joseph (1996), "Organizational science in a postmodern context", Journal of Applied Behavioral Science 32: 356–378, retrieved 25 June 2010 See also chapter in book, listed above.
- Gergen, K.J (October 2001), "Psychological science in a postmodern context", American Psychologist 56 (10): 803–813, PMID 11675987, retrieved 25 June 2010
- Gergen, K.J (2007), "Relativism, religion, and relational being", Common Knowledge, Symposium: “A Dictatorship of Relativism?” 13 (2-3): 362–378, doi:10.1215/0961754X-2007-011, retrieved 25 June 2010
References
- Gergen, K. (1993). Refiguring Self and Psychology: Kenneth J. Gergen, Hampshire: Dartmouth Publishing.
- Stroebe, W. and Kruglanski, A.W. (1989). Social psychology at epistemological cross-roads: On Gergen’s choice. European Journal of Social Psychology, 19, 485-489.
- Wallach, L. and Wallach, M.A. (1994). Gergen versus the mainstream: Are hypotheses in social psychology subject to empirical test? Journal of Personality and Social Psychology, 67, 233-242.
TED (Technology – Entertainment – Design) ra đời năm 1984 với hình thức là hội nghị quy tụ ba giới: Công nghệ, Giải trí và Thiết kế. Thành công của hội nghị 1984 là một tiếng vang lớn, nhưng mãi đến năm 2001 khi tổ chức phi lợi nhuận tư nhân Sapling Foundation mua lại TED từ người sáng lập Richard Saul Wurma thì những hoạt động của TED mới trở nên rõ nét. Chris Anderson trở thành người phụ trách TED và tiếp tục phát triển hội nghị TED với phạm vi và tác động trên toàn cầu.
Với sứ mệnh Lan tỏa giá trị của những ý tưởng (Ideas Worth Spreading), TED có một niềm tin mãnh liệt vào quyền năng của những ý tưởng trong việc thay đổi thái độ, cuộc sống và thậm chí là cả thế giới. TED trở thành một ngôi nhà chia sẻ tri thức và nguồn cảm hứng bất tận một cách miễn phí, và là một cộng đồng kết nối những tâm hồn tò mò với các ý tưởng và cá nhân khác.
TED tổ chức hai hội nghị thường niên – TED Conference ở Long Beach và Palm Spring mỗi mùa xuân và hội nghị TEDGlobal ở Edinburgh (U.K) mỗi mùa hè. TED còn cho ra đời nhiều hình thức hoạt động đa dạng khác như trang web video TED.com, chương trình TEDx, TED Fellows, TED Prize, TED Conversations và Dự án dịch thuật mở
Các videos từ thuyết trình của TED được truy cập xem miễn phí trên trang chủ http://ted.com hoặc xem trên youtube tại: http://www.youtube.com/user/tedtalksdirector
Người sử dụng WORLDCAT có thể tìm kiếm, trích dẫn, ghi nhớ kết quả tìm kiếm, tạo danh sách các danh mục đã tìm thấy, viết bình luận… Đặc biệt, ngoài việc biết được tên danh mục, người dùng còn có thể tìm được các thư viện hiện đang lưu giữ bản in để có thể mượn để đọc được toàn văn.
Đối với những người làm công tác nghiên cứu, WORLDCAT thực sự hữu ích trong việc giúp người dùng tìm được danh mục, lưu giữ và chia sẻ danh sách các tài liệu. Ngoài ra, người dùng dễ dàng đăng xuất thành danh mục thư mục tham khảo theo các chuẩn mực quốc tế, cũng như nhập vào các phần mềm quản lý thư mục nổi thông dụng như Endnote, RIS, RefWorks, EasyBib hoặc các định dạng dùng ngay trên word.
Đây là một trang web đáng dùng mà lại miễn phí.
Xem một số thông tin hữu ích của worldcat tại đây
[gview file="http://wlma2010.wikispaces.com/file/view/Presentation+-+WorldCatorg+-+Maximizing+the+Value+of+WorldCatorg.pdf" height="800" width="550"]
SkyDrive giới thiệu tính năng mới: Cải thiện quản lý tập tin, chia sẻ, kéo-thả,…
Với sự gợi ý từ các phản hồi nhận được từ người sử dụng, SkyDrive đã được nâng cấp với rất nhiều tính năng mới và cải tiến. Đây là một quá trình cải tiến liên tục, số lượng người dùng SkyDrive để chia sẻ và truy cập tài liệu văn phòng,… đã không ngừng tăng lên. Sự cải tiến cùng với nhu cầu của người dùng file Office đã làm cho SkyDrive trở nên đơn giản hơn trong việc chia sẻ tài liệu Office khi làm việc theo nhóm, cũng như khi chia sẻ các loại tài liệu khác.
Bây giờ, bạn không cần nghĩ về cấu trúc thư mục hay dịch vụ email mà bạn bè của bạn đang sử dụng để chia sẻ. Chia sẻ file trên SkyDrive đã trở thành kiểu chia sẻ hướng ứng dụng. Ví dụ, nếu bạn đang làm việc bằng cách sử dụng Word Web App với một tài liệu trong thư mục riêng, bạn sẽ có thể chia sẻ tài liệu Word này ngay trong ứng dụng mặc dù nó nằm trong thư mục riêng. SkyDrive mới cho phép bạn chia sẻ từng tập tin riêng lẻ hoặc thiết lập quyền hạn cho từng file trong một thư mục riêng. Quá trình thực hiện chia sẻ cũng đã đơn giản hơn.
Khi bạn bấm vào hộp bên cạnh tập tin, bạn sẽ nhận được tùy chọn khác nhau trong cửa sổ thông tin SkyDrive. Bạn cũng có thể kích phải chuột vào hộp để có các tùy chọn tương tự. Thực ra, tính năng mới – nhấp chuột phải vào bất kỳ tài liệu hoặc hình ảnh cũng sẽ đưa ra nhiều tùy chọn.
Chúng ta hãy xem một số tính năng mới trong SkyDrive:
- Bây giờ bạn có thể tạo, Rename (F2) một thư mục.
- Hỗ trợ xóa, di chuyển, tải nhiều file cùng lúc.
- Upload file, xóa, sao chép, di chuyển, đổi tên, chia sẻ, và tạo file mới – tất cả đều xảy ra trực tiếp.
- Trước đây, việc upload file yêu cầu phải có Silverlight. Nhưng SkyDrive mới đã tận dụng kéo-thả để upload file bằng cách sử dụng HTML5 và có thể hoạt động trên các trình duyệt hiện đại hỗ trợ HTML 5 như Internet Explorer 10, Google Chrome, Firefox và Safari.
- Bạn vẫn có thể sử dụng SkyDrive liên tục vì việc upload được thực hiện ở chế độ nền. Bạn không cần phải chờ đợi cho đến khi upload xong một file nào đó mới upload tiếp. Để tải lên, click vào “Add Files” sẽ mở ra một cửa sổ Drag & Drop, bạn có thể xem tiến trình upload ở góc dưới bên phải.
- SkyDrive mới đã cung cấp trở lại tính năng trình chiếu hình ảnh nhanh hơn và chú thích ảnh tốt hơn, nằm ngay bên dưới các bức ảnh.
- Về tốc độ, đăng nhập SkyDrive nhanh hơn khoảng 50%, xem và chỉnh sửa tài liệu Office cũng nhanh hơn vì SkyDrive đã tải trước các file.
- Hỗ trợ định dạng PDF và RAW. Các file PDF có thể xem được bằng cách sử dụng bất cứ PDF viewer nào mà trình duyệt của bạn hỗ trợ. SkyDrive mới hỗ trợ upload và xem các tập tin RAW bằng cách sử dụng Microsoft Camera Codec Pack
(theo congdongthongtin.com)
Công cụ này dễ sử dụng và giúp người dùng nhìn nhận lại sản phẩm viết của mình trên các quy chuẩn ngôn ngữ (Anh-Anh, Anh-Mỹ hay Anh-Úc) cũng như cách sử dụng từ, câu, ngữ pháp phù hợp. Phiên bản 4 mới nhất vừa được cập nhật hơn 200.000 từ vựng thường được sử dụng nhất hiện nay. Với sự bổ sung này, những "khuyến cáo" cho người dùng sử dụng từ và ngữ pháp thât sự đa dạng.
Chỉ cần mở file trên office word, click vào StyleWriter trên Add-ins là có thể biết được kết quả viết của mình cũng như biết được những gợi ý về điều chỉnh câu, từ, ngữ pháp. Dĩ nhiêu, cấu trúc ngữ nghĩa thì phần mềm chưa giúp cho chúng ta được. Mặc dù vậy, đây là phần mềm thật đáng dùng. Giá bán của phần mềm này là 150 USD...
Xin đọc hướng dẫn sử dụng tại đây:
[gview file="http://www.editorsoftware.com/images/StyleWriter/StyleWriter4_New_Features.pdf" height="900" width="550"]
Genre: Pop
Country: USA
Year: 2011
Audio codec: MP3
Riptype: tracks
Bitrate: V1
Playtime: 50 m
Tracklist:
01-Only Thing I Ever Get For Christmas
02-Mistletoe
03-The Christmas Song (Chestnuts Roasting On An Open Fire)
04-Santa Claus Is Coming To Town
05-Fa La La
06-All I Want For Christmas Is You (Superfestive!)
07-Drummer Boy
08-Christmas Eve
09-All I Want Is You
10-Home This Christmas
11-Silent Night
12-Christmas Love
13-Fa La La (Acapella)
14-Pray
15-Someday At Christmas
Social Inclusion of People with Mental Illness-Sách cần đọc
Social Inclusion of People with Mental Illness
By Julian Leff, Richard Warner
- Publisher: Cambridge University Press
- Number Of Pages: 202
- Publication Date: 2006-07-24
- ISBN-10 / ASIN: 0521615364
- ISBN-13 / EAN: 9780521615365
- Binding: Paperback
Product Description:
People with serious mental illness no longer spend years of their lives in psychiatric institutions. In developed countries, there has been a major shift in the focus of care from hospitals into the community. However, while it means those with mental illness are not confined, it does not guarantee they will be fully integrated into their communities. The barriers to full citizenship are partly due to the disabilities produced by their illnesses and partly by stigmatizing and discriminatory attitudes of the public. This book analyzes the causes of these barriers and suggests ways of dismantling them. The book is constructed in two parts: the first relates to social inclusion and the second to occupational inclusion. Throughout, the text is annotated with quotes from consumers to illustrate their experience of the issues discussed. The innovations outlined are described in sufficient detail for the reader to implement them in their own practice.
Đây là tổng hợp 167 sách trong bộ Very Short Introduction của Nhà xuất bản Oxford. Đây được coi là bộ sách nhập môn của rất nhiều các chủ đề khoa học, cũng như của các môn học đang được giảng dạy phổ biến ở các trường Đại học hiện nay. Theo như list danh sách của Oxford University Press thì toàn bộ bộ sách này đã xuất bản được 323 cuốn.
- Advertising: A Very Short Introduction, Winston Fletcher (2010, Oxford University Press) ISBN 9780199568925
African History: A Very Short Introduction, John Parker & Richard Rathbone (2007, Oxford University Press) ISBN 9780192802484 - American Political Parties and Elections: A Very Short Introduction, L. Sandy Maisel (2007, Oxford University Press) ISBN 9780195301229
- Anarchism: A Very Short Introduction, Colin Ward (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192804778
- Ancient Egypt: A Very Short Introduction, Ian Shaw (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192854193
- Ancient Philosophy: A Very Short Introduction, Julia Annas (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853578
- Ancient Warfare: A Very Short Introduction, Harry Sidebottom (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192804709
- Anglicanism: A Very Short Introduction, Mark Chapman (2006, Oxford University Press) ISBN 9780192806932
- Antisemitism: A Very Short Introduction, Steven Beller (2007, Oxford University Press) ISBN 9780192892775
- Apocryphal Gospels: A Very Short Introduction, The, Paul Foster (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199236947
- Archaeology: A Very Short Introduction, Paul Bahn & Bill Tidy (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853790
- Aristotle: A Very Short Introduction, Jonathan Barnes (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192854087
- Autism: A Very Short Introduction, Uta Frith (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199207565
Barthes: A Very Short Introduction, Jonathan Culler (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192801593 - Bestsellers: A Very Short Introduction, John Sutherland (2007, Oxford University Press) ISBN 9780199214891
- Biblical Archaeology: A Very Short Introduction, Eric H. Cline (2009, Oxford University Press) ISBN 9780195342635
- Blues: A Very Short Introduction, The, Elijah Wald (2010, Oxford University Press) ISBN 9780195398939
- Brain: A Very Short Introduction, The, Michael O’Shea (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192853929
- Buddha: A Very Short Introduction, The, Michael Carrithers (1983, Oxford University Press) ISBN 9780192854537
- Buddhism: A Very Short Introduction, Damien Keown (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853868
- Buddhist Ethics: A Very Short Introduction, Damien Keown (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192804570
- Capitalism: A Very Short Introduction, James Fulcher (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192802187
- Catholicism: A Very Short Introduction, Gerald O’Collins (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199545919
- Chaos: A Very Short Introduction, Leonard A. Smith (2007, Oxford University Press) ISBN 9780192853783
- Christian Art: A Very Short Introduction, Beth Williamson (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192803283
- Christianity: A Very Short Introduction, Linda Woodhead (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192803221
- Citizenship: A Very Short Introduction, Richard Bellamy (2008, Oxford University Press) ISBN 9780192802538
- Classical Mythology: A Very Short Introduction, Helen Morales (2007, Oxford University Press) ISBN 9780192804761
- Classics: A Very Short Introduction, John Henderson & Mary Beard (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853851
- Clausewitz: A Very Short Introduction, Michael Howard (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192802576
- Cold War: A Very Short Introduction, The, Robert J. McMahon (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192801784
- Communism: A Very Short Introduction, Leslie Holmes (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199551545
- Consciousness: A Very Short Introduction, Susan J. Blackmore (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192805850
- Contemporary Art: A Very Short Introduction, Julian Stallabrass (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192806468
- Continental Philosophy: A Very Short Introduction, Simon Critchley (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192853592
- Crusades: A Very Short Introduction, The, Christopher Tyerman (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192806550
- Cryptography: A Very Short Introduction, Frederick Charles Piper & Sean Murphy (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192803153
- Dada and Surrealism: A Very Short Introduction, David Hopkins (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192802545
- Dead Sea Scrolls: A Very Short Introduction, The, Timothy H. Lim (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192806598
- Democracy: A Very Short Introduction, Bernard R. Crick (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192802507
- Descartes: A Very Short Introduction, Tom Sorell (1987, Oxford University Press) ISBN 9780192854094
- Design: A Very Short Introduction, John Heskett (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192854469
- Dinosaurs: A Very Short Introduction, David Norman (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192804198
- Documentary Film: A Very Short Introduction, Patricia Aufderheide (2007, Oxford University Press) ISBN 9780195182705
- Dreaming: A Very Short Introduction, J. Allan Hobson (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192802156
- Economics: A Very Short Introduction, Partha Dasgupta (2007, Oxford University Press) ISBN 9780192853455
- Egyptian Myth: A Very Short Introduction, Geraldine Pinch (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192803467
- Elements: A Very Short Introduction, The, Philip Ball (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192840998
- Emotion: A Very Short Introduction, Dylan Evans (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192804617
- Engels: A Very Short Introduction, Terrell Carver (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192804662
- Epidemiology: A Very Short Introduction, Rodolfo Saracci (2010, Oxford University Press) ISBN 9780199543335
- Ethics: A Very Short Introduction, Simon Blackburn (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192804426
- European Union: A Very Short Introduction, The, John Pinder (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192853752
- Everything: A Very Short Introduction, Philip Ball (2006, Oxford University Press) ISBN 9780199208197
- Existentialism: A Very Short Introduction, Thomas R. Flynn (2006, Oxford University Press) ISBN 9780192804280
- Fascism: A Very Short Introduction, Kevin Passmore (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192801555
- Fashion: A Very Short Introduction, Rebecca Arnold (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199547906
- Feminism: A Very Short Introduction, Margaret Walters (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192805102
- Film Music: A Very Short Introduction, Kathryn Marie Kalinak (2010, Oxford University Press) ISBN 9780195370874
- First World War: A Very Short Introduction, The, Michael Howard (2007, Oxford University Press) ISBN 9780199205592
- Forensic Psychology: A Very Short Introduction, David Canter (2010, Oxford University Press) ISBN 9780199550203
- Fossils: A Very Short Introduction, Keith Stewart Thomson (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192805041
- Foucault: A Very Short Introduction, Gary Gutting (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192805577
- Free Will: A Very Short Introduction, Thomas Pink (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192853585
- French Revolution: A Very Short Introduction, The, William Doyle (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192853967
- Fundamentalism: A Very Short Introduction, Malise Ruthven (2007, Oxford University Press) ISBN 9780199212705
- Game Theory: A Very Short Introduction, Ken Binmore (2007, Oxford University Press) ISBN 9780199218462
- Gandhi: A Very Short Introduction, Bhikhu Parekh (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192854575
- Geography: A Very Short Introduction, John Anthony Matthews & David T. Herbert (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199211289
- Geopolitics: A Very Short Introduction, Klaus Dodds (2007, Oxford University Press) ISBN 9780199206582
- German Literature: A Very Short Introduction, Nicholas Boyle (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199206599
- German Philosophy: A Very Short Introduction, Andrew Bowie (2010, Oxford University Press) ISBN 9780199569250
- Global Catastrophes: A Very Short Introduction, Bill McGuire (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192804938
- Global Warming: A Very Short Introduction, Mark Maslin (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192840974
- Globalization: A Very Short Introduction, Manfred B. Steger (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192803597
- Great Depression & the New Deal: A Very Short Introduction, The, Eric Rauchway (2008, Oxford University Press) ISBN 9780195326345
- Habermas: A Very Short Introduction, James Gordon Finlayson (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192840950
- Heidegger: A Very Short Introduction, M. J. Inwood (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192854100
- Hieroglyphs: A Very Short Introduction, Penelope Wilson (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192805027
- History of Life: A Very Short Introduction, The, Michael J. Benton (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199226320
- History of Time: A Very Short Introduction, The, Leofranc Holford-Strevens (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192804990
- History: A Very Short Introduction, John H. Arnold (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853523
- HIV:AIDS: A Very Short Introduction, Alan Whiteside (2008, Oxford University Press) ISBN 9780192806925
- Human Evolution: A Very Short Introduction, Bernard A. Wood (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192803603
- Human Rights: A Very Short Introduction, Andrew Clapham (2007, Oxford University Press) ISBN 9780199205523
- Ideology: A Very Short Introduction, Michael Freeden (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192802811
- Indian Philosophy: A Very Short Introduction, Sue Hamilton (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192853745
- Information: A Very Short Introduction, Luciano Floridi (2010, Oxford University Press) ISBN 9780199551378
- International Migration: A Very Short Introduction, Khalid Koser (2007, Oxford University Press) ISBN 9780199298013
- International Relations: A Very Short Introduction, Paul Wilkinson (2007, Oxford University Press) ISBN 9780192801579
- Islamic History: A Very Short Introduction, Adam J. Silverstein (2010, Oxford University Press) ISBN 9780199545728
- Kabbalah: A Very Short Introduction, Joseph Dan (2006, Oxford University Press) ISBN 9780195300345
- Kafka: A Very Short Introduction, Ritchie Robertson (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192804556
- Law: A Very Short Introduction, Raymond Wacks (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199214969
- Lincoln: A Very Short Introduction, Allen C. Guelzo (2009, Oxford University Press) ISBN 9780195367805
- Literary Theory: A Very Short Introduction, Jonathan Culler (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853837
- Logic: A Very Short Introduction, Graham Priest (2006, Oxford University Press) ISBN 9780195682625
- MacHiavelli: A Very Short Introduction, Quentin Skinner (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192854070
- Marquis De Sade: A Very Short Introduction, The, John Phillips (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192804693
- Marx: A Very Short Introduction, Peter Singer (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192854056
Meaning of Life: A Very Short Introduction, The, Terry Eagleton (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199532179 - Medical Ethics: A Very Short Introduction, Tony Hope (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192802828
- Medieval Britain: A Very Short Introduction, John Gillingham & Ralph A. Griffiths (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192854025
- Memory: A Very Short Introduction, Jonathan K. Foster (2009, Oxford University Press) ISBN 9780192806758
- Modern Art: A Very Short Introduction, David Cottington (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192803641
- Modern China: A Very Short Introduction, Rana Mitter (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199228027
- Modern Ireland: A Very Short Introduction, Senia Paseta (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192801678
- Modern Japan: A Very Short Introduction, Christopher Goto-Jones (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199235698
- Modernism: A Very Short Introduction, Christopher Butler (2010, Oxford University Press) ISBN 9780192804419
- Mormonism: A Very Short Introduction, Richard L. Bushman (2008, Oxford University Press) ISBN 9780195310306
- Music: A Very Short Introduction, Nicholas Cook (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853820
- Myth: A Very Short Introduction, Robert Alan Segal (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192803474
- Nationalism: A Very Short Introduction, Steven Elliott Grosby (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192840981
- Nelson Mandela: A Very Short Introduction, Elleke Boehmer (2008, Oxford University Press) ISBN 9780192803016
- Neoliberalism: A Very Short Introduction, Manfred B. Steger & Ravi K. Roy (2010, Oxford University Press) ISBN 9780199560516
- Newton: A Very Short Introduction, Robert Iliffe (2007, Oxford University Press) ISBN 9780199298037
- Nineteenth-Century Britain: A Very Short Introduction, Christopher Harvie & H. C. G. Matthew (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853981
- Norman Conquest: A Very Short Introduction, The, George Garnett (2009, Oxford University Press) ISBN 9780192801616
- Northern Ireland: A Very Short Introduction, Marc Mulholland (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192801562
- Nothing: A Very Short Introduction, Frank Close (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199225866
- Nuclear Weapons: A Very Short Introduction, Joseph M. Siracusa (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199229543
- Old Testament: A Very Short Introduction, The, Michael David Coogan (2008, Oxford University Press) ISBN 9780195305050
- Particle Physics: A Very Short Introduction, Frank Close (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192804341
- Philosophy of Law: A Very Short Introduction, Raymond Wacks (2006, Oxford University Press) ISBN 9780192806918
- Philosophy of Science: A Very Short Introduction, Samir Okasha (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192802835
- Philosophy: A Very Short Introduction, Edward Craig (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192854216
- Photography: A Very Short Introduction, Steven Edwards (2006, Oxford University Press) ISBN 9780192801647
- Plato: A Very Short Introduction, Julia Annas (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192802163
Political Philosophy: A Very Short Introduction, David Miller (2003, Oxford University Press) ISBN 9780192803955 - Politics: A Very Short Introduction, Kenneth Minogue (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853882
- Postmodernism: A Very Short Introduction, Christopher Butler (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192802392
- Presocratic Philosophy: A Very Short Introduction, Catherine Osborne (2004, Oxford University Press) ISBN 9780192840943
- Privacy: A Very Short Introduction, Raymond Wacks (2010, Oxford University Press) ISBN 9780199556533
- Progressivism: A Very Short Introduction, Walter Nugent (2009, Oxford University Press) ISBN 9780195311068
- Psychiatry: A Very Short Introduction, Tom Burns (2006, Oxford University Press) ISBN 9780192807274
- Puritanism: A Very Short Introduction, Francis J. Bremer (2009, Oxford University Press) ISBN 9780195334555
- Quakers: A Very Short Introduction, The, Pink Dandelion (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199206797
- Quantum Theory: A Very Short Introduction, J. C. Polkinghorne (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192802521
- Racism: A Very Short Introduction, Ali Rattansi (2007, Oxford University Press) ISBN 9780192805904
- Reformation: A Very Short Introduction, The, Peter Marshall (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199231317
- Relativity: A Very Short Introduction, Russell Stannard (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199236220
- Renaissance Art: A Very Short Introduction, Geraldine A. Johnson (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192803542
- Renaissance: A Very Short Introduction, The, Jerry Brotton (2006, Oxford University Press) ISBN 9780192801630
- Roman Empire: A Very Short Introduction, The, Christopher Kelly (2006, Oxford University Press) ISBN 9780192803917
- Rousseau: A Very Short Introduction, Robert Wokler (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192801982
- Russell: A Very Short Introduction, A. C. Grayling (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192802583
- Russian Literature: A Very Short Introduction, Catriona Kelly (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192801449
- Russian Revolution: A Very Short Introduction, The, S. A. Smith (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192853950
- Schopenhauer: A Very Short Introduction, Christopher Janaway (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192802590
- Science and Religion: A Very Short Introduction, Thomas Dixon (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199295517
- Scotland: A Very Short Introduction, Rab Houston (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199230792
- Sexuality: A Very Short Introduction, Veronique Mottier (2008, Oxford University Press) ISBN 9780199298020
- Sikhism: A Very Short Introduction, Eleanor M. Nesbitt (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192806017
- Socialism: A Very Short Introduction, Michael Newman (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192804310
- Soviet Union: A Very Short Introduction, The, Stephen Lovell (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199238484
- Spanish Civil War: A Very Short Introduction, The, Helen Graham (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192803771
- Statistics: A Very Short Introduction, D. J. Hand (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199233564
- Stuart Britain: A Very Short Introduction, John Morrill (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192854001
- Superconductivity: A Very Short Introduction, Stephen Blundell (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199540907
- Terrorism: A Very Short Introduction, Charles Townshend (2002, Oxford University Press) ISBN 9780192801685
- Thomas Aquinas: A Very Short Introduction, Fergus Kerr (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199556649
- Tocqueville: A Very Short Introduction, Harvey Mansfield (2010, Oxford University Press) ISBN 9780195175394
- Tragedy: A Very Short Introduction, Adrian Poole (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192802354
- Tudors: A Very Short Introduction, The, John Alexander Guy (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192854018
- Twentieth-Century Britain: A Very Short Introduction, Kenneth O. Morgan (2000, Oxford University Press) ISBN 9780192853974
- U.S. Congress: A Very Short Introduction, The, Donald Ritchie (2010, Oxford University Press) ISBN 9780195338317
- United Nations: A Very Short Introduction, The, Jussi M. Hanhimaki (2008, Oxford University Press) ISBN 9780195304374
- Vikings: A Very Short Introduction, The, J. D. Richards (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192806079
- Wittgenstein: A Very Short Introduction, A. C. Grayling (2001, Oxford University Press) ISBN 9780192854117
- World Trade Organization: A Very Short Introduction, The, Amrita Narlikar (2005, Oxford University Press) ISBN 9780192806086
- Writing and Script: A Very Short Introduction, Andrew Robinson (2009, Oxford University Press) ISBN 9780199567782
[highlight bg="#DDFF99" color="#000000"]Đây là một phần trong chương 1 của Lý thuyết Công tác xã hội hiện đại[/highlight], xin trân trọng giới thiệu
Những khác biệt về văn hoá là vấn đề rất quan trọng. Cũng có nhiều tranh luận về việc khi nào công tác xã hội và các lý thuyết của nó mang tính toàn cầu hoặc bị giới hạn theo cách sử dụng của nó. Về mặt lịch sử, chúng xuất hiện trong các quốc gia dân chủ Phương Tây và các giá trị cơ bản của nó đều có nguồn gốc từ thiên chúa giáo. Có ba phức hệ những tranh luận ủng hộ việc chúng ta chưa sử dụng chúng quá rộng rãi.
Thứ nhất, những nền tảng giá trị và văn hoá về các xã hội khác nhau có lẽ là không phù hợp với những đánh giá và những giả định có trong công tác xã hội Phương Tây. Ví dụ, những bài viết về công tác xã hội ở Trung Quốc và các quốc gia Phương Đông khác lại cho rằng những nhận định mang tính cá nhân về công tác xã hội Âu-Mỹ không thể có được những vấn đề đúng trong xã hội, nó cũng tạo được những vấn đề quan trọng về mối liên hệ phụ thuộc trong các gia đình và mong đợi với quyền lực. Chow (1987) có xem xét triết lý về chăm sóc của Trung Quốc và Phương Tây và chỉ ra được công tác xã hội Phương Tây được dựa trên nhiều về tầm quan trọng của cá nhân, với một quan niệm bổ trợ về quyền của cá nhân. Theo những đánh giá xã hội Trung Quốc, quyền của các cá nhân là không được đề cao. Hơn nữa, bổn phận của việc là bộ phận của mạng lưới những mối quan hệ gia đình đã trở thành vấn đề trung tâm. Do vậy, những đánh giá Phương Tây đều cho rằng mục tiêu của công việc với những người trẻ tuổi chính là nhằm chuẩn bị cho họ có được sự độc lập với gia đình nhiều hơn là sự phụ thuộc, điều này có lẽ là không phù hợp. Ko (1987) cũng chỉ ra được những quan niệm về gia đình đã thay đổi như thế nào khi có những biến đổi xã hội ở Trung Quốc. Chan (1987) cũng đánh giá đến những xung đột hình thành từ những nỗ lực duy trì những quyền lực huyết thống truyền thống trong các môi trường xã hội đang biến đổi và những nội dung trọng tâm được đề ra từ những mối quan hệ hoà hợp, không xung đột giữa trẻ em và nhóm người khác. Fong và Sandu (1995) cũng cho rằng các giá trị của người Trung Quốc có đề cập đến những hành vi tầng bậc nhiều hơn là hành vi quân bình theo những chỉ báo về quyền lực, ở hình thức kiểm soát bên trong hơn là kiểm soát bên ngoài, bị kiểm soát hơn là thả lỏng, tự bày tỏ hơn là thực hiện những vai trò tự do. Roan (1980) qua trải nghiệm của Đài Loan, cũng cho rằng trở thành các cán sự xã hội có lẽ cố gắng xác định những thái độ truyền thống về quyền lực và vị thế theo cách tiếp cận văn hoá khi tiến hành công việc với gia đình nhiều hơn là với từng cá nhân và xem xét những hệ thống trợ giúp truyền thống lẫn nhau của một xã hội cụ thể là gì. Canda (1988) cho rằng công tác xã hội cần đánh giá những đặc tính tinh thần đa dạng bao gồm những quan điểm tôn giáo và phi tôn giáo khi những đặc tính này được phát hiện ở nhiều nhóm khác nhau trong xã hội. Trong nghiên cứu ở Hàn Quốc, Canda (1993) cũng đã chỉ ra được hàng loạt các mục đích cá nhân và xã hội có ảnh hưởng đến các nhóm dân tộc thiểu số ở các xã hội Phương Tây nhưng có lẽ lại có những ảnh hưởng tích cực đến tư duy phương Tây nhiều hơn. Với các ví dụ về giá trị tạo dựng ý thức và tư tưởng của ai đó vì lợi ích của xã hội và đóng góp các bài học cho nhiều người khác và vì sự tốt đẹp của toàn bộ cấu trúc xã hội, vấn đề quan trọng về những nỗ lực cải thiện cuộc sống của cá nhân nào đó cùng với việc đem lại sự tốt đẹp cho những cá nhân khác và duy trì sự hoà hợp giữa một cá nhân và những tinh thần hiện hữu những áp lực của cá nhân và xã hội.
Cũng có những tranh luận đáng lưu ý về những vấn đề này ở ấn Độ. Wadia (1961) cũng cho rằng quan niệm của người Hindu về Pháp (liên quan đến xã hội là tổng thể, cần giúp đỡ mọi người) và Nghiệp chướng (theo Karnik và Suri, 1995; giá trị mà các điều kiện xã hội của chúng ta tích hợp lại qua các hoạt động cũng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ về tinh thần và vật chất trong cuộc sống và sau khi chết), đó là những ảnh hưởng đang và sẽ hiện ra ở cuộc cải cách xã hội ấn Độ và các giá trị công tác xã hội. Mặc dù vậy, nghiệp chướng vẫn tồn tại trong sự phát triển của công tác xã hội bởi vì nó thúc đẩy sức ì như là nền tảng của của cái tinh thần cuối cùng khi mà chẳng có hoạt động nào có thể hiện hữu mà không có những mục đích xã hội vì lợi ích bản thân (Lumar, 1994:6; Karnik và Suri, 1995). Điều này có nghĩa là cần hiểu các gia đình lý giải nghiệp chướng quan trọng như thế nào trong công tác xã hội với người Hindu. Kumar (1994) cũng chỉ ra được tinh thần truyền thống của người ấn Độ cũng làm tăng cường việc thực hiện những hành động tốt đẹp mà không cần có phần thưởng, không cần tham gia vào những mối quan hệ rộng rãi, nhấn mạnh đến lợi ích của xã hội nhiều hơn là lợi ích của cá nhân và quan tâm đến mối quan hệ lẫn nhau trong xã hội, điều này đã hình thành được những hoạt động từ thiện chứ không phải là sự đặc ân. Mặc dù vậy, có nhiều vấn đề triết lý cũng phù hợp với công tác xã hội thể hiện qua các công cụ về tinh thần hơn là phát triển những dịch vụ xã hội. Dĩ nhiên đó là sự phát triển một hệ thống đẳng cấp cứng nhắc bao gồm người tầng lớp trên, được đề cập đến sự tồn tại phụ thuộc trong hiện thực và sự phát triển đến những tư tưởng về sự phân chia và sự trong trắng của người phụ nữ đã làm ngăn cản phụ nữ tham gia và nhận được sự trợ giúp (Kuma, 1994; Karnik và Suri, 1995). Cũng có nhiều nỗ lực xác định những triết lý khác nhau về công tác xã hội ở ấn Độ với những tư tưởng của người lãnh đạo như Gandhi và Nehru về phúc lợi của tầng lớp tiện dân, người phụ nữ và những khu vực nông thôn (Muzamdar, 1964; Howard, 1971). Gangrade (1970) cũng đánh giá được việc
Kiến tạo công tác xã hội ấn Độ yêu cầu tập trung nhiều hơn đến trách nhiệm của mạng lưới gia đình trong việc duy trì các mối quan hệ trong toàn bộ cuộc sống hơn là các mô hình công tác xã hội phương Tây đơn lẻ, ở đó vai trò của gia đình là nhằm chuẩn bị cho các cá nhân có được cuộc sống tách biệt, độc lập với gia đình. Tương tự, công tác xã hội phương Tây khuyến khích sự đa dạng thông qua quá trình cạnh tranh, trong khi triết lý Hindu lại nhằm cố gắng xây dựng các mối quan hệ và tránh những xung đột. Dĩ nhiên, những dịch vụ về các trường hợp cũng tồn tại ở các khu vực đô thị, họ chấp nhận những kỹ thuật nghiên cứu không trực tiếp của Phươg Tây nhiều hơn là cách tiếp cận về quyền lực có thể chấp nhận được về mặt văn hoá (Kassim Ejaz, 1989). Nghiên cứu của Verma (1991) về công tác xã hội tâm thần học của người ấn Độ cũng cho thấy sự phát triển của ngành học này như thế nào ở các bệnh viện tâm thần Anh vào thế kỷ 19 và các quan niệm của Mỹ về công tác xã hội trong thế kỷ 20. Hoặc là có sự phù hợp với quan điểm của ấn Độ về bệnh tâm thần điều này thường được lý giải khi gia đình gặp những bất hạnh, ở một thành viên nào đó của gia đình đã bị ảnh hưởng từ cái xấu. Hệ thống y tế truyền thống cũng cho phép có những liệu pháp chữa trị tâm lý và ma tuý còn tôn giáo lại thúc đẩy các hoạt động từ thiện và các dịch vụ chăm sóc. Mặc dù vậy, tâm thần học phương Tây cũng đã làm giới hạn khả năng công tác xã hội về những lợi thế này, qua việc chỉ ra những bệnh viện có dấu hiệu xấu, tách bệnh nhân ở các điều kiện nghèo nàn khỏi cộng đồng.
Liên quan đến vấn đề này, tôn giáo và các triết lý xã hội cũng có thể không phù hợp đến nội dung này, ít nhất là đối với một số khía cạnh của cộng đồng cũng phản đối những quan điểm phương Tây. kết quả là, phương pháp thực hành của phương Tây cũng đã hướng đến các vấn đề của phương Tây như những trường hợp trị liệu, cá nhân qua công việc với các cá nhân hoặc nhóm, tất cả có lẽ cũng không phù hợp. Ví dụ, Silavwe (1995) cũng đã bàn luận về công tác xã hội ở Zimbabue và cũng cho rằng các mô hình công tác xã hội về gia đình và ocoongj đồng bao giờ cũng đi vào giải quyết các vấn đề phù hợp với các bối cảnh sống của cộng đồng đó hơn là công tác cá nhân giữa cán sự xã hội và khách hàng.
Thứ hai, các xã hội đang phải đối mặt với nhiều vấn đề khác nhau. Công tác xã hội Mỹ và Châu Âu đều cho rằng có nhiều các dịch vụ phúc lợi xã hội khác nhau, ở các quốc gia càng giàu có, ở các quốc gia phát triển về kinh tế lại càng có nhiều. Thông thường, công tác xã hội ở đây lại tập trung nhiều đến các vấn đề xã hội ở các khu vực đô thị. Còn ở các quốc gia nông nghiệp, các xã hội chậm phát triển nơi mà sự mưu sinh và những nhu cầu chỉ mới dừng lại ở sức khoẻ cơ bản và sự tồn tại thì có lẽ khó có thể sử dụng các phương pháp của công tác xã hội phương Tây. Mặc dù vậy, một số vấn đề cũng cần phương pháp như vậy. Sự thất bại của công tác xã hội phương Tây là đưa ra được những mô hình linh hoạt và các khoá đào tạo phù hợp lại cũng là vấn đề đáng bị phê phán, đặc biệt là các vấn đề về phát triển nông thôn và biến đổi xã hội (Nagpaul, 1972; Nanavatty, 1981; Ghosh, 1984; Illango, 1988). Thậm chí, ở đây Bryant (1985) cũng cho rằng những nhu cầu về lý thuyết và thực hành ở các quốc gia khác nhau không nhất thiết phải giống nhau. Công việc phát triển nông thôn ở á Châu và Phi Châu là khác nhau theo các nền kinh tế và theo các cách thức canh tác.
Thứ ba, cũng có nhiều mối quan tâm đến sự thống trị của văn hoá và lịch sử của chủ nghĩa thực dân đàn áp. ở các quốc gia mà hầu hết các ý tưởng về công tác xã hội xuất phát từ những kết quả của sự phát triển kinh tế thông qua bóc lột các quốc gia thuộc địa hiện vẫn còn trong tình trạng đói nghèo. Họ thống trị cả quá trình chuyển giao tri thức và thông tin. Kết quả là các quan điểm Phương Tây lại có nhiều ảnh hưởng hơn vì các quốc gia nghèo có các nền văn hoá riêng, có các hệ thống xã hội riêng đã bị phá vỡ qua qúa trình bị thuộc địa. Điều này vẫn còn tiếp diễn thông qua những ảnh hưởng áp đặt của nhiều nền văn hoá nổi trội hơn. Phương tiện gây ra ảnh hưởng này chính là sự kiểm soát ngôn ngữ (Tiếng Anh và các ngôn ngữ ở Âu Châu đã được sử dụng rộng rãi cho quá trình trao đổi thông tin), ngoài ra còn có các phương tiện khác nữa là báo chí, truyền hình và đài phát thanh.
Sức mạnh thực dân lại ít được quan tâm cùng với các vấn đề về phúc lợi, theo Asamoa và Beverly (1988), học có ý hướng đến tách những khía cạnh khác nhau về các vấn đề của xã hội và con người hơn là việc tìm kiếm những hình thức cung cấp toàn diện cho xã hội. Các vấn đề về kinh tế và chính trị cũng cần được xem xét là quan trọng hơn là những nhu cầu xã hội. Do đó, lực lượng thực dân tìm cách làm giảm vai trò của các cấu trúc cung cấp các hình thức phúc lợi truyền thống (như bộ lạc ở Sierra Leone: Jarrett) và đưa ra những quyết định cho quá trình cung cấp vấn đề mưu sinh trong thời gian ngắn hơn là tạo lợi nhuận lâu dài cho nhà thuộc địa. Điều này có nghĩa là các dịch vụ và các quan điểm gắn với họ là được phát triển và cũng có những giả định cho rằng các lý thuyết phương Tây cũng có thể chuyển đổi được. Sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế cũng có thể được kết hợp cùng với các dịch vụ của địa phương (Schenk và Schenk, 1987; Whang, 1988) và cũng thường được tập trung nhiều đến trẻ em hơn là các nhóm khác (Dixon, 1987; Dixon và Scheurell, 1989; Onokerkorayne, 1984). Sự phát triển ban đầu thường xuất phát từ các vấn đề do chính sức mạnh thực dân đem lại. Nghiên cứu của Gargett (1977) về giai đoạn tiền độc lập của Zimbabwe cũng chỉ rõ công tác xã hội phát triển đến mức có những tranh luận mạnh mẽ đòi hỏi phá vỡ mô hình đời sống bộ lạc dưới ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá. Mô hình dịch vụ đầu tiên xuất hiện chính là các dịch vụ quản chế cá nhân và bỏ học. Công tác xã hội với nhóm ở các câu lạc bộ thanh niên cũng phải giải quyết với các vấn đề với giới thanh niên bất mãn. Khi hầu hết các quốc gia thuộc địa được độc lập, những thành kiến cá nhân về công tác xã hội trong những năm 1950 đến 1960 cũng không cong phù hợp nữa ngay cả khi có những vấn đề xã hội và kinh tế còn tồn tại. Yelaja (1970) cũng ghi nhận được nhiều vấn đề trong giai đoạn này khi có yêu cầu về những quan điểm rộng hơn về công tác xã hội, cần áp dụng vào sự biến đổi xã hội và sự phát triển nhiều chính sách. Đôi khi, những vấn đề kinh tế cũng trở nên quá nghiêm khắc (như nhiều quốc gia châu Phi; Dixon, 1987) và những vấn đề liên quan về hệ tư tưởng và những vấn đề ưu thế khác cũng được xem là rất quan trọng (như ở Trung Quốc đại lục; Starak, 1988) điều đó cũng cho thấy việc hình thành sự thừa nhận công tác xã hội đối với các quốc gia phát triển phương Tây là không phù hợp.
Những tranh luận như vậy cũng giúp các học giả khác (như Midgey, 1981; Ossei-Hwedie, 1990-93) đi đến việc xác định nhu cầu của nhiều quốc gia thứ ba nhằm tránh được những tác động của vấn đề thống trị văn hoá từ các nước giàu, các quốc gia phát triển. Họ cũng tạo dựng được nhiều cách tiếp cận cấp tiến và thực tế hơn đối với sự phát triển xã hội (Hardiman và Midgey, 1989; Midgey, 1995).
Mặc dù vậy, những tranh luận như thế này lại hoàn toàn không mang tính thuyết phục. Những xung đột và những vấn đề khó khăn trong quá trình truyền đạt những tư tưởng trong công tác xã hội lại không phải là sự xung đột của hai hệ thống tư tưởng. Thứ nhất, các quốc gia vào thời gia đó là đa nguyên về văn hoá và đạo đức cần tạo dựng nhiều mô hình dịch vụ và cá phương pháp thực hành nhằm đáp ứng những nhu cầu giữa các nhóm văn hoá và đạo dức khác nhau. Điều này cho phép chúng ta chuyển đổi những tư tưởng giữa các nền văn hoá khác nhau. Các tư tưởng từ các quốc gia Phi Phương Tây cũng có nhiều ảnh hưởng khi các quốc gia Phương Tây lại quá nhạy cảm với những vấn đề về nhu cầu của nhóm thiểu số. Chương 9 và 10 cũng cho thấy phong trào về việc tái thiết lại những quan niệm ở châu Mỹ Latinh và ở các nước thứ Ba cũng ngày càng có nhiều ảnh hưởng đến công tác xã hội Phương Tây.
Thứ hai, lịch sử của chủ nghĩa thực dân và sự thống trị văn hóa lại không mang tính nguyên khối hoặc là đủ sức mạnh. Heisler (1970) cũng cho rằng truyền thống của thực dân Anh thường hướng đến sự tin cậy vào những sáng kiến của địa phương, phi chính thức và mang tính phi tập trung hoá đối với phúc lợi xã hội. Nói cách khác, nền thực dân Anh lại phản ảnh quá trình tập trung và xu hướng gắn kết, phối hợp. Ngược lại, những phản ứng đối với những xu thế này của chính phủ và người dân sau quá trình phi thực dân hoá cũng rất khác nhau. Mặc dù có nhiều vấn đề ảnh hưởng của thiên chúa giáo cũng rất quan trọng đối với sự phát triển của Châu Âu và Bắc Mỹ (như Philpot, 1986); tác động này ở các quốc gia thuộc địa lại cũng rất khác nhau. Bởi vì Thiên chúa giáo đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng để đưa người dân vùng thuộc địa hướng đến nền văn hoá của các nhà thực dân. ở một số nơi vấn đề này vẫn được xem là bị tách khỏi việc xung đột những áp lực của địa phương (như nghiên cứu của Haile, Selassie ở Ethiopia vào những năm 1930; Schenk và Schenk, 1987). Nói cách khác, sự tồn tại của các nền văn hoá là không dễ gì đạt được. Ví dụ, với những nỗ lực của luật pháp ấn Độ vào thế kỷ 19 nhằm làm biến đổi những xung đột về văn hoá như sự hy sinh của goá phụ và nhóm côn đồ, nhưng qua đó một số vấn đề mới cũng đã được thực hiện (Chakrabarti, 1987). Với nhiều quốc gia khác gồm có cả các quốc gia Phi Châu (Dixon, 1987) cũng nhận thấy những hoạt động cứu trợ xã hội lại chủ yếu được thực hiện qua nhiệm vụ truyền đạo Thiên chúa giáo và các hoạt động tình nguyện khác. Cũng có những nỗ lực để thực hiện các hoạt động cứu trợ cộng đồng cho tới tận cuối những năm 1940. Dĩ nhiên khi những lý thuyết mang tính ngôn ngữ Anh lại là những môn hình dịch vụ rộng khắp và quá lớn về tổ chức và các hoạt động chuyên môn ở nhiều các quốc gia khác nhau cũng hướng đến hệ thống các tư tưởng khác nhau mà không có nhiều ở Mỹ và ở Anh Quốc. Ví dụ, ở Pháp, hàng loạt những mô hình cán sự phúc lợi xã hội tồn tại và tất cả họ đều có những vai trò có liên quan đến những vấn đề khác nhau trong công tác xã hội như ở Anh và Mỹ (Birks, 1987). Tương tự, các tư tưởng Tây Âu về giáo dục xã hội (chương 9) lại không được sử dụng rộng rãi ở Anh và Mỹ.
Nền văn hoá nổi bật Âu-Mỹ lại có thể hướng đến sự ngăn cản về các nền văn hoá khác. Điều này có lẽ xây dựng những mô hình tác động nhằm tạo dựng được những triết lý và các mô hình thực hành khác nhau hơn là lại đàn áp chúng. Điều này có lẽ cũng có nhiều ảnh hưởng đến các nền văn hoá Phương Tây. Schiele (1994) cũng cho rằng các quan điểm coi nền văn hoá Phi Châu là cao thượng nhất nhấn mạnh đến sự phụ thuộc lẫn nhau, về sự tập thể và tính tinh thần và có lẽ cũng là nền tảng tốt để thúc đẩy sự cân bằng thông qua công tác xã hội hơn là các mô hình nhân văn theo chủ nghĩa cá nhân của Phương Tây. ở đó cũng có những mối liên hệ giữa những nhóm liên quan từ các nền văn hoá khác nhau. Ví dụ, trào lưu chính thống Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Do thái đều có nhiều điểm chung với nhau hơn là tự tách biệt nhau về mặt tôn giáo (Adibi, 1992). Midgley và Sanzenbach (1989) cũng cho rằng trào lưu chính thống này đối lập với các thuyết cá nhân, và truyền thống nhân văn. Một quan điểm khác lại là sự hiện diện của một loạt các phương tiện truyền thông qua các kênh truyền dẫn vệ tinh, dễ dàng đi đến các quốc gia hơn, cũng như dễ dàng tạo được các bản chế bản điện tử hơn. Những vấn đề này đã tạo điều kiện tiết kiệm hơn về mặt kinh tế và kỹ thuật. Các quốc gia và các nền văn hoá không tĩnh tại, nó luôn biến đổi, Nhiều nền kinh tế đã từng chậm phát triển (như Hàn Quốc, Singapore) thì hiện đã trở thành những nền kinh tế giầu có. Kết quả là nó cũng kéo theo làm biến đổi các nhau cầu có các mô hình công tác xã hội khác nhau.
Thứ ba, theo những quan điểm này thì các nền văn hoá không mang tính duy nhất hay bao hàm tất cả các vấn đề, đó là dấu hiệu mà quá trình trao đổi lẫn nhau có thể đạt được. Phát triển của các mô hìnch công tác xã hội phù hợp với những vấn đề của địa phương cũng có thể được phác hoạ và bắt nguồn từ mô hình của các quốc gia Phương Tây. Walton và El Nasr (1988) cũng đã sử dụng những vấn đề của Ai Cập nhằm đưa ra được một quá trình song hành như vậy. Những hình thức lựa chọn như vậy đã thu được những tư tưởng như vậy để làm cho phù hợp với những điều kiện của địa phương (Osei-Hwedie, 1993). Sự xác nhận đó cũng đã phát triển được những tư tưởng của địa phương theo quá trình thu nhận những lý thuyết đó nhằm tạo nên được một cấu trúc tư tưởng mới. Quá trình tương tự cũng xảy ra giữa các quốc gia phương Tây. Ví dụ, các lý thuyết của Mỹ cũng đã được thích ứng với việc sử dụng ở Anh và các quốc gia Châu Âu khác với các hệ thống công tác xã hội của chính phủ và mang tính quan liêu hơn. Ví dụ, trong chương 4, với đánh giá của Doel và Marsh (1992) về sự thích ứng của người Anh về mô hình thực hành lấy nhiệm vụ là trung tâm của người Mỹ. Một vấn đề khác nữa là việc các mô hình đó từ những nền văn hoá khác nhau cũng đã đáp ứng được những nhu cầu của một quốc gia nhằm phát triển các dịch vụ phản ánh được những giá trị Phương Tây. Một số quốc gia Đông Âu cũng phát triển công tác xã hội ít ra là nhằm làm tự do hoá các mô hình dịch vụ phúc lợi mang tính quan liêu và áp đặt nhiều hơn. Ví dụ, các dịch vụ về sức khoẻ tâm thần ở Nga cũng thường được áp dụng trong giai đoạn phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nó được xem như là công cụ của việc áp chế chính trị. Rõ ràng là các quốc gia khác nhau cũng đều chia sẻ những giá trị chung. Ví dụ, Chan (1993) cũng đã nghiên cứu những hoạt động trợ giúp dựa trên cộng đồng ở các thành phố ở nước cộng hoà (xã hội chủ nghĩa) nhân dân Trung Hoa. Bà đã nhận ra được các hệ thống trợ giúp quan hệ hàng xóm láng giềng cũng đã được lý tưởng hoá và không tồn tại trong thực tế. Sự trải nghiệm của các dịch vụ chăm sóc cộng đồng Phương Tây cũng có lẽ góp phần không nhỏ đối với việc phát triển những quan điểm nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Dĩ nhiên, nước Anh cũng phải đối mặt với các vấn đề mà sự trợ giúp hàng xóm láng giềng được xem là vẫn còn tồn tại nhưng lại bị phủ nhận qua những áp lực về kinh tế và xã hội (Bulmer, 1987). Cũng có những hình thức so sánh theo sự tưởng tượng về sự hiện hữu của các hình thức trợ giúp dựa trên cộng đồng.
Thứ tư, cũng có những cấu trúc tổ chức mang tính quốc tế có liên quan đến phúc lợi xã hội (xem Payne, 1966a) điều này có ở nhiều các hình thức tiếp cận chiết trung khác nhau, bao gồm những mô hình phát triển xã hội phù hợp với các quốc gia phi phương Tây. Do đó, cũng có cấu trúc của công tác xã hội hoặc các hình thức công tác xã hội được sử dụng rộng rãi hơn những mô hình của Châu Âu.
Do đó, cuốn sách này cũng đi tìm những cách thức phản ảnh được những bài viết rộng rãi và sự phát triển về công tác xã hội. Nếu chính sách này được theo đuổi trên bình diện rộng, thì các mô hình và tư tưởng phi Âu-Mỹ cũng ngày có nhiều ảnh hưởng đến các công trình nghiên cứu về công tác xã hội thế giới. Để có được những bài viết về công tác xã hội Âu-Mỹ theo những cách thức dễ thích ứng hơn là vấn đề rất quan trọng. Do đó, cách tiếp cận được đề cập trong cuốn sách này cũng là nhằm thể hiện được những quan điểm tương xứng, tổng quát. Các bài viết bóp méo những vấn đề cụ thể của nền văn hoá là khó có thể xảy ra; nó có thể vẫn chỉ là một món ăn kiêng nhạt nhèo. Viết về các tư tưởng của công tác xã hội cũng phản ảnh được nhận thức được sử dụng và được chấp nhận với hàng lọi những vấn đề của môi trường văn hoá và xã hội. Do đó, nó cũng tìm cách tránh được những bài viết cụ thể nếu chúng ta phát triển được một hệ thống các tư tưởng rộng rãi trong ngành công tác xã hội.
[note color="#FFCC00"]Nguồn: Lý thuyết Công tác xã hội hiện đại, bản dịch, Trường ĐH KHXH&NV Hà Nội, 2007[/note]
Exploring the experiences of Children with Disabilities at school settings in Vietnam context
This abstract is submitted to the AARE's Conference in Hobart, Tasmania, from 26/11-01/12/2011. It will be presented from 11:30 to 11:00, 30/11/2011-http://www.cdesign.com.au/aare2011/program_SIG3.html#SIG8
Recent reports by MOET and MOLISA stated that just only nearly one-third of children with disabilities (CWD) going to schools at their ages (MOLISA 2004, MOET 2010). Meanwhile the rest are unable to go to schools. For those in school settings are facing and experiencing many difficulties in inclusive education or in special education. Such difficulties are ranged from negative social attitudes to disability and CWD, to lack of learning facilities and shortage of skilled teachers, support staffs (MOET 2010). This paper titled “Exploring the experiences of children with disabilities at school settings in Vietnam context” focuses at finding these difficulties in Vietnam context.
As applying research process by Crotty (Crotty 1998), my research used social constructionism and symbolic interactionism as the theoretical background, ethnomethodology as the methodology which drive methods for collecting data in terms of observation, survey and personal interview.
The initial findings from 230 questionnaires’ survey and 36 interviews, in which informants are CWD, children with non-disabilities, parents of CWD, and teachers in school settings, are stated as: (a) the general understanding of disability is based on medical model and individual model rather than social model; (b) the most difficulties which CWD experience at school are those of learning facilities, the empathy from peer students and barriers from physical environment; (c) the ways which CWD try to deal with such difficulties are mostly do-by-themselves or try to be adapted rather than asking for supports actively. By these findings, recommendations on having further activities on changing social awareness on disabilities, specific support activities for CWD and school staff are stated in order to promote social inclusion of CWD at schools.
Keywords: Children with disabilities (CWD), social inclusion, Vietnam, experience, inclusive education
Giới thiệu sách: Công tác xã hội và Chính sách xã hội: Nhập môn
Hiểu về chính sách xã hội là điều quan trọng để gắn các giá trị của công tác xã hội vào giải qiuyeets các câu hỏi mang tính đạo đức và chính trị về quyền, trách nhiệm và cách hiểu của chúng ta về mô hình xã hội tốt đẹp. Ấn phẩm này sẽ cung cấp cách nhìn toàn diện về chính sách xã hội, đây là một ấn phẩm hữu ích cho người làm công tác xã hội
Jonathan Dickens phân tích các chính sách đương đại và các chủ đề liên quan đến công tác xã hội và xác định vị trí của chúng trong bối cảnh các nguyên tắc và vấn đề chính sách xã hội cơ bản. Ông tiến hành phân tích bản chất của chính sách xã hội và mối quan hệ của nó đối với công tác xã hội ở các khía cạnh chính:
- sự tham gia vào các dịch vụ;
- sự cân bằng giữa trách nhiệm cá nhân, xã hội và nhà nước về sự phát triển của con người;
- các vai trò phù hợp của nhà nước, khu vực công, các tổ chức tình nguyện và gia đình;
- các mối quan hệ giữa nhu cầu, quyền và sự chọn lựa;
- các mục đích và thách thức của công tác xã hội chuyên nghiệp
- ý nghĩa của hòa nhập và cá nhân hóa
Ở từng chương của ấn phẩn này đều đưa ra các hoạt động giúp người đọc tự bộc lộ cách hiểu của mình và những phân tích, gợi ý cho việc đọc và tìm hiểu sâu về vấn đề của từng chương. Ấn phẩm này thực sự có giá trị cho sinh viên ngành công tác xã hội.
Nội dung của ấn phẩm bao gồm:
Phần 1: Những mô hình cơ bản
- Công tác xã hội phục vụ cho vấn đề gì?
- Chính sách xã hội đề cập đến các khía cạnh gì?
- Vai trò của nhà nước
Phần 2: Những vấn đề cốt lõi
- Nhu cầu và quyền
- Bất bình đẳng, nghèo đói và khác biệt
- Tham dự và sự chọn lựa
Phần 3: Những chủ đề đương đại
- Chuyên môn hóa và liên chuyên môn hóa
- Bối cảnh của tổ chức
- Công tác xã hội và tiền tệ
Phần 4: Kết luận
Sách được xuất bản năm 2009 do nhà xuất bản Routledge thực hiện. Sách gồm 200 trang
Sách hiện chỉ có phiên bản bằng tiếng Anh, hy vọng sẽ được trích dịch trong thời gian sớm nhấn.
The Academic Phrasebank is a general resource for academic writers. It aims to provide you with examples of some of the phraseological "nuts and bolts" of writing organised under the headings to the left. It was designed primarily with international students whose first language is not English in mind. However, if you are a native speaker writer, you may still find parts of the material helpful.
The phrases can be used simply to assist you in thinking about your writing, or they can be used in your own work where this is appropriate. In most cases a certain amount of creativity will be necessary when you do this. It is also possible to transfer some of the words used in particular phrases to others. The phrases are content neutral and generic in nature; in using them, therefore, you are not stealing other people's ideas and this does not constitute plagiarism.
Users will need to be aware that Phrasebank is not discipline specific, and it does not claim to be comprehensive.
For the full content, look at: http://www.phrasebank.manchester.ac.uk/
Social Constructionism and its potential applications in Vietnamese social research
Đang suy nghĩ và phát triển tiếp ý tưởng này
Abstract
Social constructionism has been recognized as a prominent place in social sciences generally which contributes to study of deviance, social problems, social movements, the self, the gender, race, education, health, emotions, family, disability, and other areas (Cromby 1999; Hibberd 2005; Burr 2007; Daly 2007; Harris 2010; Lock & Strong 2010). And it becomes the useful background for identifying and selecting suitable theoretical perspective, methodology as well as research methods, on collecting data and generating meanings from data, for many topics in both qualitative and quantitative research (Crotty 1998; ten Have 2004). Applying social constructionism as epistemological background supports social researchers finding suitable ways on creating the research framework, on approaching to sensitive topics as well as on generating data from those in vulnerable groups.
On looking at brief history of social constructionism and its variations, this paper aims at identifying its core and appropriate implications for social research as well as recommending the suitable ways for applying it in interdisciplinary research in Vietnam contexts.
Keywords: social constructionism, social research, methodology, Vietnam social research.
Mấy bữa nay, trên Báo điện tử Lao động xã hội, website của Bộ Lao động TBXH đang đưa tin nhiều về vấn đề phát triển nghề công tác xã hội ở Việt Nam và các hoạt động kỷ niệm Ngày Công tác xã hội thế giới lần thứ 14. Với chủ đề kỷ niệm Ngày Công tác xã hội thế giới lần thứ 14, thì quả chỉ có Việt Nam mới tổ chức sự kiện này vào thời điểm này. Theo IFSW thì tổ chức này có lấy Ngày thứ Ba, tuần thứ Ba, tháng Ba hàng năm là ngày Công tác xã hội thế giới và nhiều quốc gia tổ chức hưởng ứng sự kiện này vào thời gian tháng 3, 4 hàng năm. Và năm 2011 là năm thứ 27 tổ chức sự kiện này. Một câu hỏi đặt ra là tại sao Việt Nam lại chọn thời điểm tháng 11 kỷ niệm và tại sao năm 2011 lại là lần thứ 14????
Việt Nam là quốc gia mới phục hồi lại vấn đề đào tạo công tác xã hội (từ 2004-theo mốc của việc Bộ GDĐT ban hành chương trình đào tạo Cử nhân công tác xã hội) nhưng đã có sự phát triển mạnh mẽ về "số trường tổ chức đào tạo", về ban hành các chiến lược phát triển (gần 2500 tỷ đồng) và xây dựng mã nghề cho công tác xã hội, tuy nhiên vẫn có vẻ "lạc lõng" trong sự phát triển chung về công tác xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đang hướng đến phát triển về mặt chiến lược, dự án, mô hình thí điểm... mà chưa có chuyển biến mạnh về con người, cấu trúc, và nền tảng mang tính chuyên nghiệp cho ngành này (hệ thống các quy điều đạo đức, chuẩn mực thực hành, sức mạnh của các mô hình dịch vụ, tổ chức nghề nghiệp, tạp chí chuyên ngành...). Hy vọng sự lạc lõng này sẽ được khỏa lấp từ sau các dự án, lễ hội kỷ niệm, hội nghị khoa học...
- Create and Save a new Endnote library in an identifiable location on your hard-drive (unless you are importing records to an existing Endnote library).
- In WorldCat, mark records to be saved.
- Click on the "Export" button.
- Choose "Marked records from this search" then click on the Export button. If this option does not appear in Worldcat, it is likely a problem with your Web browser. It is recommended that you download a Mozilla Firefox Web Browser to your computer and perform your search with Mozilla’s Firefox: http://www.mozilla.com/
- Choose “Open” or “Open with” on the pop-up window that appears.
- EndNote will start. Select an existing endnote library in which to place the new records. At the prompt, select the “WorldCat (OCLC)” import filter. The records will be copied to your Endnote library.
B. To Save records from different searches in WorldCat for later batch transfer to Endnote (so that you don’t repeatedly go through the process outlined above):
- Create an account in WorldCat, creating subfolders corresponding to projects/chapters, and save marked records to these folders for later use. These saved records in WorldCat can be exported to Endnote.
- From the WorldCat screen, select “My Account” and “New User Registration” (if you don’t already have an account). Fill in required fields.
- After account is created, begin “searching.”
- Mark appropriate bibliographic records for saving, select “Marked Records,” then “Saved Marked Records.”
- The saved records will appear in your account’s “default” folder. You can name and create new folders and move records to these folders. The records are automatically saved in your account (you can close out WorldCat without loosing them).
- To export records in one of your folders to Endnote, select “List of Records,” then “Export” and follow directions above for exporting to Endnote.
(http://www.pitts.emory.edu/)
Mô hình xã hội về khuyết tật và công tác xã hội với người khuyết tật ở Việt Nam
Giới thiệu
Theo những đánh giá mới nhất, người khuyết tật trên thế giới chiếm khoảng 10% dân số và đa phần tập trung ở các nước đang phát triển (World Health Organisation & The World Bank 2011). Ở Việt Nam, tỷ lệ này chiếm khoảng 6.3% (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội 2009; Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam 2010). Mặc dù, điều kiện sống của xã hội có nhiều biến đổi mạnh mẽ, ngày càng có nhiều sự đầu tư của xã hội đối với đời sống của người khuyết tật, nhưng người khuyết tật vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong cuộc sống, từ việc phải đối mặt với những thái độ kỳ thị, tới thiếu các cơ hội để tự phát triển bản thân đến việc đối mặt với những rào cản về cơ sở hạ tầng, giao thông, công trình công cộng, thông tin... cũng như các dịch vụ xã hội mang tính chuyên môn trợ giúp cho người khuyết tật. Họ đang phải đối mặt với hai thách thức lớn: Thực hiện chức năng về mặt sinh học và thực hiện chức năng về mặt xã hội.
Giải đáp những rào cản đó là một chủ đề đang được các quốc gia quan tâm, tập trung giải quyết từ nhiều góc độ, trong đó có cách tiếp cận từ công tác xã hội. Các mô hình đem lại thành công cho cách tiếp cận này được biết đến như là việc hướng đến hiểu vấn đề khuyết tật từ góc độ xã hội và hướng các dịch vụ xã hội và mô hình trợ giúp xã hội cho người khuyết tật từ cách tiếp cận hòa nhập xã hội. Đó chính là cách thuần túy tìm giải pháp cho các vấn đề của cá nhân của người khuyết tật lồng ghép cùng việc tìm các giải pháp giải quyết vấn đề của xã hội. Giảm rào cản xã hội là cách thức bền vững nhất đề nâng cao khả năng sống độc lập và khả năng hòa nhập của người khuyết tật một cách toàn diện.
Hiện cách hiểu về vấn đề khuyết tật đang dần chuyển từ các mô hình cá nhân/y tế sang cách nhìn xã hội và điều này có ảnh hưởng và tác động tích cực đến các mô hình thực hành công tác xã hội đối với người khuyết tật (Oliver 1996). Bài viết này sẽ nhấn mạnh đến các vấn đề về mô hình xã hội của khuyết tật và áp dụng của mô hình này trong lĩnh vực công tác xã hội với người khuyết tật và những vấn đề đặt ra đối với công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay.
[Đây là abstract gửi Hội thảo kỷ niệm Ngày Công tác xã hội sẽ được tổ chức ngày 11/11/2011 tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh. Bản fulltext sẽ được giới thiệu trong thời gian sớm nhất. Trần Văn Kham]
Phát triển an sinh xã hội từ vai trò của công tác xã hội
Cuối tháng 10/2011, tại Indonesia đã diễn ra Hội nghị quốc tế về các vấn đề an sinh xã hội ở khu vực ASEAN với sự tham gia của các nhà nghiên cứu, nhà hoạt động về công tác xã hội, an sinh xã hội, chính sách xã hội của 23 quốc gia. Đây là những nỗ lực thúc đẩy vai trò và hoạt động của công tác xã hội của Mạng lưới hợp tác công tác xã hội của Indonesia (một số các quốc gia ở khu vực đã xây dựng và phát triển mạng lưới này từ sau cuộc họp tại Manila-Philipines về Mạng lưới hợp tác công tác xã hội của ASEAN đầu tháng 3/2011, ở vấn đề này Việt Nam ta chưa thấy hoặc chưa tiết lộ thông tin về phát triển mô hình này). Các chủ đề của Hội nghị được trình bày ở 7 lĩnh vực chính: Vấn đề đào tạo và phát triển tính chuyên nghiệp công tác xã hội; Vấn đề người già; Quản lý thảm họa và tái thiết xã hội; Lao động di cư; Khuyết tật; An sinh trẻ em; và Trách nhiệm xã hội. Định hướng xuyên suốt cho các vấn đề của Hội nghị là xác định và thúc đẩy vai trò của công tác xã hội trong việc phát triển an sinh xã hội.
Từ các nội dung được chia sẻ tại Hội nghị, vai trò của công tác xã hội đã được các đại biểu đánh giá cao trong một định hướng phát triển bền vững và mang tính hội nhập cao cho các thành viên dễ bị tổn thương trong xã hội. Đào tạo và phát triển công tác xã hội theo hướng chuyên nghiệp; làm sao áp dụng các mô hình công tác xã hội phương tây và đẩy mạnh các mô hình công tác xã hội bản địa/người thiểu số đã được nhiều học giả thảo luận và đưa vào những đề xuất mang tính chiến lược cho công tác xã hội. Từ vấn đề này, định hướng phát triển “hài hòa” và “dung hợp” đã được chia sẻ: Lấy nền tảng tri thức phương Tây áp dụng trong bối cảnh “văn hóa”, “tôn giáo”, “thể chế chính trị”… ở phương Đông.
Cùng với nội dung mà các đại biểu chia sẻ, khi được nói chuyện với các GS từ các trường đại học của Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, thì việc phát triển tính chuyên nghiệp công tác xã hội đang được các quốc gia quan tâm nhiều đến khía cạnh “cấu trúc”, có nghĩa là phát triển Mạng lưới hiệp hội các trường đào tạo công tác xã hội, Mạng lưới các nhân viên xã hội, hệ thống chuẩn mực đạo đức thực hành công tác xã hội, Hệ thống đánh giá tay nghề nhân viên xã hội, Hệ thống mạng lưới thực hành dựa trên các dịch vụ xã hội… Còn nhiều vấn đề khác, nhưng dĩ nhiên họ ít đề cập đến vấn đề giáo trình, tài liệu (vì sinh viên của họ có khả năng đọc tài liệu tiếng anh).
Chia sẻ về vấn đề phát triển công tác xã hội ở Việt Nam (về số lượng các cơ sở đào tạo, thực hành, về vấn đề học liệu, về vấn đề nghề nghiệp, về tính chuyên nghiệp…), các học giả khác có cái nhìn rất “tích cực” về triển vọng công tác xã hội ở Việt Nam nhưng vẫn có những câu hỏi và có sự “biểu hiện thái độ ngạc nhiên” là tại sao các tổ chức mang tính chuyên nghiệp như Hội các trường đào tạo công tác xã hội, hội nhân viên xã hội, các quy điều chuẩn mực đạo đức và thực hành… chưa được quan tâm và đẩy mạnh ở Việt Nam. Rồi câu hỏi “Công tác xã hội Việt Nam sẽ là gì sau khi tiêu hết số tiền của đề án 32?” tự nhiên lại hiện ra./.
Social Work Education in Vietnam: Implications in the period of welfare reform
Abstract: Social work is a new professional area in Vietnam which was officially approved since 2004. Currently 34 universities and colleges have permission on training at levels of undergraduate and masters. This paper will critically analyse the social work policy strategy from 2010 to 2020 in order to highlight the specific challenges as well as provide a series of recommendations..
Keywords: social Work, social work education, Vietnam, welfare
Citation: Van Kham Tran, 2011, Social Work Education in Vietnam: Implications in the period of welfare reform, ASEAN Social Work Journal, vol 1 no 1, pp.125-35.
Social construction of disability and its impacts to welfare practice in Vietnamese contexts
This paper will be presented at The First International Conference on Welfare Issues in the ASEAN Region, from 26 Oct to 2 November 2011, Jakarta and Bali, Indonesia.
Introduction
Recent statistics by Vietnam Ministry of Labours, Invalids and Social Affairs (MOLISA) identify that there is more than 6.7 million people with disabilities (PWD) or more than 6.34% of the population of Vietnam (Ministry of Labors-Invalids and Social Affairs 2004; UNICEF Vietnam 2010). Vietnamese Government tries to setup a variety of legal documents and social policies in order to promote the life of PWD. However, they are still living in poor conditions and facing negative social attitudes as well as experience their own difficulties in accessing the social supports from welfare systems (Ministry of Labors-Invalids and Social Affairs 2004; Le Bach Duong, Khuat Thu Hong & Nguyen Duc Vinh 2008; UNICEF Vietnam 2010). The welfare policies toward PWD has been changed but there are still limited in providing sustainable services and supports for PWD and their families as well as creating an inclusive setting for their social participation.
Reasons for such situations are expressed as the lack of social awareness on disability; the immature understandings of social position of PWD in society; the existed social policies are not effective in practice and in creating the specific services as well (The United States Agency for International Development 2005; Le Bach Duong, Khuat Thu Hong & Nguyen Duc Vinh 2008). The meaning of disability and its social understanding are very significant for changing the social attitudes toward PWD and for changing the way of delivering social supports for them. This situation leads to require more considerations in social research about the social construction of disability in Vietnamese contexts, in both policy approaches and social understandings. Having the details of such understandings also creates the significant impact to welfare practice to the life of PWD and also improves the social inclusion aspect for PWD. This also aims at mapping the harmonised and sustainable society for all (UNICEF Vietnam 2010).
This paper, as a part of my research project on social inclusion of children with disabilities (CWD) in Vietnam, focuses on the general understanding and practice on disability from policy analysis and surveys. Focusing on the analysis of policy and the daily understandings in disability is the way to identify the gaps between the policy and practice in area of disability. This work paper aims at making the recommendation for promoting social inclusion of CWD in Vietnam in ideas of social welfare reform and social work practice.
From the survey with 210 participants and the policy analysis, the initial findings on this paper present some aspects of knowledge, attitude and practice (Kaplan & Parsons) on disability which are presented as following: Firstly, there is a significant changes in legal documents and social policies related to disability in Vietnam, especially from 2006, in terms of its name, its contents for improving the life of PWD with inclusive approach, however the meaning of disability is not clear in policies. Secondly, the understanding on disability is mainly based on medical/individual model which focuses on the disability’s causes in words of health or individual problem rather than viewing the social causes in aspects of the social barriers and restriction, in additions almost policies focus on the problems of PWD rather than the social aspects. Thirdly, social attitude toward disability and PWD seems to be very empathetic, however it is less regard to CWD’s ability as well as there are more attitudes on charity giving and supporting than helping them to be independent in their life. And finally, in spite of positive knowledge and attitudes on disability, there is still limitation on practical activities towards CWD/PWD from society in daily life.
(Van Kham Tran, PhD Candidate, School of Psychology, Social Work and Social Policy, University of South Australia. Email: travk002@mymail.unisa.edu.au)